BÀI CHÒI QUẢNG TRỊ NGHỆ THUẬT CUỐN HÚT NGƯỜI CHƠI

5:50:00 SA |
BÀI CHÒI QUẢNG TRỊ
 NGHỆ THUẬT CUỐN HÚT NGƯỜI CHƠI
Cái Thị Vượng-Bảo tàng Quảng Trị
     Bài chòi là một loại hình sinh hoạt văn hóa dân gian ra đời từ rất lâu ở khu vực duyên hải miền Trung Trung Bộ, trong đó có Quảng Trị. Tại hầu hết các làng Việt cổ truyền trên địa bàn Quảng Trị từ những năm 1945 trở về trước đều tồn tại một hình thức giải trí vào dịp tết - đó là đánh bài tới. Bài tới là một trò chơi giải trí chủ yếu giành cho các phụ nữ ở độ tuổi trung niên trở lên ngồi đánh trên các sạp chiếu và chỉ mang tính chất nhỏ lẽ trong từng gia đình. Về sau, đánh bài tới tại một số làng quê đã phát triển lên một bước mới về quy mô và cách thức, các làng đã cho dựng chòi phía trước sân đình, sân chợ để tổ chức hội bài chòi, cờ chòi trong các dịp xuân đến, thu hút mọi lứa tuổi trong cộng đồng làng gia cuộc chơi. Từ đây, bài chòi thực sự trở thành ngày hội của cộng đồng làng và được dân gian gọi là Hội bài chòi.
Từ đó bài chòi đã trở thành trò chơi dân gian lành mạnh và có sức hấp dẫn mạnh mẽ, cuốn hút công chúng nhất là các tầng lớp bình dân, nhân dân lao động tại các địa phương và đã trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu của người dân Quảng Trị và khắp cả các tỉnh miền Trung ngày trước. Vậy điều gì khiến cho người dân Quảng Trị lại đam mê bài chòi đến như vậy? Lý giải cho vấn đề này chúng tôi thiết nghĩ đó không chỉ là những đặc trưng, giá trị văn hóa của bản thân bài chòi mà còn cả nghệ thuật bài chòi Quảng Trị.
1.     Đặc trưng cơ bản trong hội bài chòi dân gian Quảng Trị
- Bài chòi là trò chơi dân gian, bình dân lành mạnh mang tính văn nghệ, giải trí, thu hút mọi tầng lớp nhân dân từ người già đến trẻ nhỏ, thanh niên nam nữ trong vùng kể cả những người khách qua đường. Họ tập trung đến đây để thử vận hên xui đầu năm, việc ăn hay thua là yếu tố không đáng kể. Từ đó bất kỳ ở đâu có hội bài chòi cũng thu hút nhiều người không chỉ đến chơi mà còn thưởng thức những tài nghệ của người chạy bài/ người hô thai từ đó bài chòi trở thành ngày hội của nhân dân trong vùng.  
- Từ tài nghệ của người chạy bài/ người hô thai, bài chòi đã trở thành phương tiện truyền tải những giá trị văn hóa truyền thống của cha ông cho các thế hệ, đó là các câu ca dao, tục ngữ, các tích truyện có nội dung về tình yêu quê hương đất nước, yêu làng xóm, đạo hiếu với ông bà tổ tiên, nghĩa tình sâu đậm vợ chồng ... Đây là các lời dạy, lời chỉ bảo của cha ông truyền qua bao thế hệ. Đây chính là mấu chốt là chất keo để gắn kết cộng đồng làng xóm.
- Bài chòi mang giá trị đặc trưng về mặt nghệ thuật âm nhạc bình dân đó là các tiết tấu dân gian quen thuộc, dể hiểu dể tiếp thu.
- Các câu thai trong bài chòi mộc mạc, chân chất phù hợp với cuộc sống của người lao động tại các làng quê nhưng vẫn hàm chứa nội dung sâu xa mang đặc trưng của dòng văn học, thơ ca bình dân nhưng đây là tiền đề để sau này dòng văn học hiện đại ra đời.
 2. Những giá trị văn hóa trong bài chòi Quảng Trị








- Đây là trò chơi để giải trí, thỏa mãn tinh thần của người lao động trong dịp xuân về, bài chòi đem lại sự hồ hởi sảng khoái sau những tháng ngày lao động mệt nhọc bởi những sự lo toan trong cuộc sống đời thường. Bài chòi lại không gắn bó với các việc tế lễ mà đơn thuần chỉ là trò giải trí, đó là hội mà lại là hội xuân nên thu hút đông đảo người chơi.
- Hội bài chòi là hình thức sinh hoạt văn hóa cộng đồng, là phương tiện giao lưu tình cảm bền chặt, gắn bó cố kết cộng đồng bởi vì họ chính là người tổ chức, người chơi, người xem, lại là các nghệ nhân sáng tác các câu thai, là người nghệ sĩ tài ba trong việc ứng biến và hô các câu thai... Đây chính là những nhân tố trực tiếp thúc đẩy thu hút người chơi  đến với hội bài chòi dân gian.
- Hội bài chòi khơi nguồn cảm hứng sáng tạo cho mọi người, từ những cái đã có càng ngày các câu thai càng được bổ sung và có sức sống rất mãnh liệt nó tồn tại và trải dài theo thời gian mặc dầu mảnh đất Quảng Trị trải qua biết bao thăng trầm dâu bể của chiến tranh và ly loạn.
3. Nghệ thuật trong cách chơi và thể lệ chơi
Theo nghiên cứu bước đầu ở một số làng trên địa bàn tỉnh Quảng Trị có 3 cách chơi bài chòi cơ bản và dựa vào đó để người ta dựng và bố trí các chòi chơi như sau:
-  Cách thứ nhất: Tại làng Ngô Xá Tây -Triệu Trung  (huyện Triệu Phong)
Dựng 11 chòi con (chòi quân) được bố trí theo hình chữ U, 1 chòi cái (chỉ huy giành cho ban tổ chức và ban nhạc cổ) nằm đối diện.
Ban tổ chức phân bộ bài thành 11 phần bất kỳ, mỗi phần 5 con gọi là tay bài, 01 con để người chạy bài/ người hô thai đi chợ, còn lại 4 con nhưng phải là 2 cặp do Ban tổ chức giữ lại (có thể là 2 cặp bài bất kỳ trong bộ bài tới). Khi ban tổ chức thông báo vào cuộc chơi thì người chạy bài mang các tay bài đến các chòi, mỗi chòi được quyền rút ngẫu nhiên 1 tay bài và để lại một con làm con đi chợ. Các chòi con mỗi lần đi hai con, con cuối cùng dùng để "chực tới". Khi chòi nào thắng cuộc thì dùng mõ để báo hiệu (mỗi lần đi thì đánh một hồi 3 tiếng, nếu thắng thì đánh hồi dài).
- Cách thứ hai: Tại làng Hà Thượng - Thị Trấn Gio Linh  (huyện Gio Linh)
 Dựng 10 chòi con, chia làm 2 phía 1 chòi ở chính giữa là chòi trung tâm hay còn gọi là chòi cái. Bộ bài chơi sơn 2 màu 30 quân xanh và 30 quân đỏ
Theo quy định của ban tổ chức, hội chơi được chia làm 2 phe (mỗi phe 5 chòi ở cùng một phía). Sau đó người chơi mua vé để lên chòi chơi, trên vé có đánh số chòi, người chơi mua trúng chòi nào thì lên chòi đó. Khi người chơi đã lên đủ trên các chòi thì hai người chạy bài/hô thai tiến hành phát bài cho 10 chòi quân, mỗi chòi được chọn ngẫu nhiên 3 con bài, 30 con bài còn lại dốc ngược chỉ chừa lại phần chân đặt trong ống tre ở chòi cái.
Sau khi các chòi đã chọn xong bài, người chạy bài/ hô bài thai bước đến ống tre đựng cờ ở chòi cái, xóc đi xóc lại rồi chậm rãi rút từng con bài. Mỗi lần rút bài người chạy bài/ hô bài thai  hô câu thai tên con bài. Chòi nào có đúng quân bài đó thì người chơi cầm mõ gõ lên ba tiếng cắc, cắc, cắc hoặc xướng to lên "ăn rồi" thì người chạy bài/ hô bài thai sẽ sai ngưòi phụ việc đến trao cho một cây cờ đuôi nheo nhỏ. Đến lúc chòi con nào ăn đủ 3 con (được 3 cờ) thì hô "tới" và gõ một hồi mõ kéo dài, lúc này âm thanh của các nhạc cụ vang lên báo hiệu có người thắng/tới. Thông thường cuộc chơi từ 8 đến 10 hiệp là hết một ván bài chòi, lưu lại một hiệp/ ván cho ban tổ chức dùng để chi phí và sau đó tiếp tục kẻ bước xuống người bước lên chòi chơi ván khác.
- Cách thứ ba: Tại làng Đơn Duệ -Vĩnh Hòa (huyện Vĩnh Linh) dựng 10 chòi và chia làm 2 phe
Ban tổ chức phân bộ bài thành 2 phần, mỗi phần 30 con gọi là quân xanh - quân đỏ tương ứng với hai dãy chòi hai bên. Mỗi bên có một người chạy bài. Khi ban tổ chức xáo bài xong thì người chạy bài của mỗi bên cầm phần bài của mình đến các chòi, mỗi chòi được quyền rút ngẫu nhiên 5 con bài, riêng chòi trung tâm (chòi cái) được phát 6 con bài (mỗi người chạy bài phát 3 con) đội nào phát bài chậm thì con cuối cùng của đội đó làm con đi chợ. Bốn con còn lại được giữ ở chòi Cái nhưng phải là 2 cặp bài bất kỳ. Các chòi con mỗi lần đi hai con, con cuối cùng dùng để "chực tới" (riêng 3 con bài tử, ầmđỏ mỏ không được “chực”). Khi chòi nào thắng cuộc thì dùng mõ để báo hiệu.
          4. Nghệ thuật của người chạy bài/ hô thai trong hội bài chòi
Như chúng tôi đã đề cập ở phần trên, bài chòi là mội trong những hình thức nghệ thuật dân gian sinh động bởi bản thân nó đã có sự kết hợp khéo léo cả thơ ca, ca dao, tục ngữ với nhạc cổ truyền qua lối ứng tác, diễn xuất độc đáo và nhanh nhạy; tất cả đó được được thể hiện qua khả năng trình diễn, đối đáp và thách đố của người chạy bài/ người hô thai trong hội bài chòi. Họ chính là những nông dân mộc mạc chân chất trong cuộc sống lao động bổng hóa thành những diễn viên trong các hội bài chòi. Những nét mộc mạc chân chất mang đậm tính dân gian ấy đã tạo ra nét đẹp hồn nhiên hiệu quả thu hút hấp dẫn người đến với hội chơi. Có thể khẳng định người hô thai là linh hồn, là sức sống quyết định thành công trong hội bài chòi
Người chạy bài vừa là người hô thai để thách đố các bạn chơi trên tất cả các chòi; do vậy các câu hô thai luôn biến đổi không theo một bài bản nhất định để tránh sự nhàm chán nhưng hàm nghĩa phải sát đúng với con bài để người chơi đoán định. Người chạy bài phải là người nghệ sĩ tài hoa thông thuộc nhiều câu ca dao, tục ngữ cũng như các tích tuồng để thách đố các chòi chơi và phe chơi của quân mình khi chia làm 2 phe. Họ phải là người tài trí thông minh, nhanh nhạy ứng biến vạn trạng của người hô thai mà người Quảng Trị quen gọi là “hò mui miếng” để khen ngợi ví von họ. Trong tất cả 30 con bài của bộ bài tới cứ mỗi con bài thường được ứng với một hay nhiều câu thai. Mỗi câu thai được hô theo những làn điệu, tích tuồng khác nhau mà người ta dựa vào đó để sáng tác. Lời câu thai không bóng bẩy, cầu kỳ mà mang tính hồn nhiên, trong trẻo dễ nhớ. dễ ăn sâu và đi vào lòng người. 
Vừa là người nghệ sỹ, vừa là nhà thông thái nhưng chính họ lại là nghệ sỹ hài mua vui chi bà con cô bác có mặt trong hội chơi. Từ bộ mặt đến dáng điệu của người chạy bài/ hô thai có sự kết hợp nhuần nhuyễn để thể hiện sát đúng với nội dung con bài tuy vậy vẫn gây được tiếng cười cho khán giả, nhưng vẫn ở mức độ chừng mực, ý tứ để mọi người có mặt ngẫm lâu cười khoái. Tất cả hình thức bên ngoài của họ đều chỉ mang tính phụ họa gây cười tạo không khí vui vẽ cho người đến dự hội bài chòi đầu năm. Theo những người có mặt trong hội bài chòi thì niềm vui này là vận may, vận phúc đến với họ trong suốt cả năm mới.    
Mặc dầu không cầu kỳ như những diễn viên lên sân khấu với các trang phục lộng lẫy đẹp mắt; người chạy bài /hô thai thường sử dụng trang phục thường ngày của họ đó là bộ bà ba truyền thống của người Quảng Trị, để phân biệt với khán giả trong hội chơi có chăng họ chỉ điểm xuyến thêm một vài chổ như thắt nơ trên đầu hay buộc đai bên hông. Thế là họ đã trở thành một diễn viên nghiệp dư đang diễn cho người dự hội là hàng trăm khán giả. Các động tác biểu diễn của họ không có bàn tay của đạo diễn sân khấu, không có nghệ thuật hay kỷ thuật giàn dựng mà tất cả là sự ngẫu hứng nên hoàn toàn không bài bản hay quy cách nào. Thông thường mỗi cuộc chơi thường có hai đến 4 người thay đổi nhau để hô thai.
Ngôn ngữ các câu hô thai chân chất dung dị. lời thơ mộc mạc chân quê hợp tình, hợp lý. Nếu nói thì nói theo kiểu ngụ ngôn, thành ngữ hay dùng ngắn gọn, dễ nhớ. Nếu hề thì đi theo lối truyện tiếu lâm dân gian. Nếu thách đố thì rất tục và dân giả nhưng giải nghĩa thì thanh thoát đến lạ lùng. Ví dụ để thách đố con Đượng có các câu thai:
Đò em đưa đón bộ hành,
Ghe con một chiếc tứ anh trọn bề,
Trải qua mưa nắng dầm dề,
Quanh năm chèo chóng tứ bề sóng xô,
Tiếng ai văng vẵng gọi đò,
Mau mau nhổ nọc chèo qua đón người
hay: Em ơi răng mà xem lên thì sáng ràng sáng rạng,
Ngó lên đã thấy mặt trời.
Vì em sa giấc ngũ nên con bướm anh vô chơi lộng chừng.
Hoặc con Ngũ
Chợ đang đông răng em không ra giảo lượn hơn thua.
Để mần chi cho chợ tan quán tắt thì vò vọ với cua ghềnh em cũng quơ.
hay: Tham chi cờ bạc anh ơi,
Đêm đi ngày ngũ mọi người cười cho.

Con Gối:
Đêm nằm nghe vạc kêu sương,
Xuân về lòng nhớ người thương chung tình.
Nhưng có cách hô khác:
Ngó lên trên trời thì thấy tàu bay tợ dường như con én liệng
Ngó xuống dưới đất thì thấy tàu điện chạy liên miên
Ơi tình ơi nợ ơi duyên.
Có nơi mô kết vấn thề nguyền.
Để mần chi bữa ni chờ bữa mai đợi để lợ căn duyên bạn cười.
Với các dụng cụ trong đội nhạc cổ truyền thống như: trống, đàn nhị, sanh. kèn đã hổ trợ rất nhiều cho người hô thai và các động tác diễn xuất. Bà con xa gần đến hội đều ước muốn được nghe tiếng hô hay của người chạy bài với nhiều câu thai mới lạ hòa đồng với tiếng nhạc tiếng đàn truyền thống thế là đã thu hút được người chơi.
Có thể khẳng định với những đặc trưng cơ bản, những giá trị văn hóa truyền thống, nghệ thuật và thể lệ chơi khá phong phú và đa dạng và khác xa so với một số tỉnh ở miền Trung, cùng với sự tài hoa của người nông dân hóa thân làm nghệ sỹ đang diễn trên sân khấu quê nhà ... Tất cả thế là đủ để làm thỏa mãn mong ước của người chơi và dân chúng xa gần, đó chính là sức hút mạnh mẽ trong hội bài chòi Quảng Trị.


Xem thêm…